You are not connected. Please login or register

Ánh sáng-bóng tối trong "Chữ người tử tù" & "Hai đứa trẻ"

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

☺
Quản Lý Forum
Quản Lý Forum

Nguyễn Thị Hải Anh (Nguồn : Tạp chí nghiên cứu văn học)

Ánhsáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luônluôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sángvà bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người vàsự vật trong cuộc sống.Trongvăn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ phápnghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng,chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tùcủa Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻcủa Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệthuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống,như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả.Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗingười có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau,tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phongcách cá nhân của tác giả.Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tùHai đứa trẻ,ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tìnhhuống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộcđời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thúchơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viếtchữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vậtnày xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tạikhông thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóngtối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì làđối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đãhàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từtối ra sáng như một quy luật tất yếu. “Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp,một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thứccủa con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quanniệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nétchữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách ngườiviết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưacoi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần.Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tàihoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của conngười này. Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tùchủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tốiom", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt",tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìngiữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõhơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhânthân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tácphẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tốinhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữabóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xaxa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánhsáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữasự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin vềthiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng khôngbao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin củacon người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánhsáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở mộtnơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sángluôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trongthế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêngcủa mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếngtrống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vàonhững bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Nhữngsợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đờimòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bópthái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đãngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4).Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xâydựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi HuấnCao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơichỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi saochính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứngđể rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đếnmột thái độ ứng xử đẹp. Cuộc gặpgỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợpvô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường,khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, camchịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏara từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật vănhóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đốilập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt củacuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngụcvào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, làngười máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻtỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bênngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa củaNguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chútánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Khôngnhững thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thànhthiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóngtối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".Về truyện ngắn Hai đứa trẻcủa Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó làđiểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cáchriêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻđược sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện củaThạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sửdụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chitiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.Bối cảnh của Hai đứa trẻlà không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưngxuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đanxen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả nhưru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lạivà cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyệntrong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệucủa cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Sốphận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạtnhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tácgiả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm vềvà lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõnghàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phênnứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóngvật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốcban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sốngthứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờđợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh,tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. Hìnhtượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độcđáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữakhông gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm,không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán củahai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mứcđộ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụbao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ởphố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc nàynỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cônhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quákhứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đangsống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). Ánh sángtừ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự củanhững con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà khôngbiết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻkhi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhậnđộ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó,thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) củahai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trịtư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam .Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tùHai đứa trẻvừacó điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sángvà bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trongxây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tốivừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từbóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khaitâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóanày. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩatượng trưng.Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cáiđẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổnđịnh và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểuchơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cáchđẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của NguyễnTuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nêntác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng vớibóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đâyvừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống vớibóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. VớiThạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng,quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làmnổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sánggiới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng... tượng trưng cho số phậnmòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quákhứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng contàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại(ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tươnglai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩathực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát khaohạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Còn vớiNguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cáicao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệthuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tốicũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyểnbiến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tìnhhuống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữachân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến nhữngcái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóngtối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.Chính từtính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nóđã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lựccho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệthuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhautrong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệmnghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giátrị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diệnmạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản khôngphải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mụcđích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn chương khiến nó luônmới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị.
__________(1) M.B. Khrapchenco: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học. Nxb. Tác phẩm mới, H, 1978, tr.152.2) Nguyễn Hiếu Tín: Thư pháp là gì. Nxb. Văn nghệ, Tp HCM, 2007, tr.51.(3), (4) SGK Văn 11. Nxb. Giáo dục, H, 2000, tr.170.(5) SGK Văn 11. Sđd, tr.154.(6) SGK Văn 11. Sđd, tr.158.(7) Nguyễn Thành Thi: Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam. Nxb. KHXH Tp.HCM, tr.170.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết